Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên – Đệ Nhất Hùng Biện

  • Thời gian

    18 thg 12, 2023

  • Lượt xem

    194 lượt xem


Tôn giả ấy sẽ vang lừng khắp chốn với khả năng hùng biện kiệt xuất. Mọi chúng sinh dù cang cường nhất cũng sẽ được Ngài khuất phục để quay về tựa nương nơi Chánh Pháp.” Không ai khác, đó chính là Tôn giả Đại Ca Chiên Diên Đệ Nhất Hùng Biện

ton-gia-dai-ca-chien-dien-de-nhat-hung-bien-397

TÔN GIẢ ĐẠI CA CHIÊN DIÊN (MAHA KACCAYANA) ĐỆ NHẤT HÙNG BIỆN

Tinh xá Kỳ Viên (Jetavana) một buổi sáng trong mát, dù tiết trời đang mùa đông nhưng cảnh vật vẫn tươi tắn đầy sức sống. Nắng sớm tỏa xuống hàng cây, xuyên qua tán lá, in dấu những vệt sáng lấp lánh trải dài trên khắp lối đi của tinh xá.

Các vị Tỳ kheo đang tiễn chân một vị Tôn giả trong tình huynh đệ ấm áp.
Thượng thủ Xá Lợi Phất (Sariputta) lên tiếng:

– Tôn giả sau này sẽ là ngôi sao sáng trong hàng đệ tử của Thế Tôn. Thầy sẽ rống tiếng con sư tử để truyền bá chánh Pháp nhiều nơi. Thầy hãy cứ về thăm quê hương và khi quay lại chúng ta sẽ lại được đoàn tụ.

Vị Tôn giả nở nụ cười nhu thuận rồi chắp tay xá xuống đáp lễ. Ngài có gương mặt hiền từ và ánh mắt độ lượng của một bậc trí giả quảng bác. Khi Tôn giả vừa bước ra khỏi cổng tinh xá thì một vầng mây ngũ sắc hiện ra bay lững lờ theo chân của Ngài.

Sa di La Hầu La (Rahula) thắc mắc hỏi Tôn giả Nan Đà (Nanda) thì được giải thích rằng: “Đó là bởi chư Thiên đang dõi theo để hầu cận Ngài. Vị ấy là một Đại A La Hán kỳ tuyệt, đã nhiều kiếp gây tạo các công đức lành từ các vị Phật quả khứ. Sau này, Tôn giả ấy sẽ vang lừng khắp chốn với khả năng hùng biện kiệt xuất. Mọi chúng sinh dù cang cường nhất cũng sẽ được Ngài khuất phục để quay về tựa nương nơi Chánh Pháp.”

Không ai khác, đó chính là Tôn giả Đại Ca Chiên Diên (Maha Kaccayana)- vị Đệ Nhất Hùng Biện trong Tăng đoàn của Đức Thế Tôn.

I. XUẤT THÂN TÔN GIẢ ĐẠI CA CHIÊN DIÊN

Tôn giả Đại Ca Chiên Diên là một trong mười đại đệ tử của Đức Phật. Ngài có một quý tướng là từ khi chào đời, nước da lúc nào cũng óng ánh vàng khiến người vừa gặp đã sinh lòng quý mến. Lớn lên trong một gia đình Bà la môn truyền thống tại thành Ujjeni thuộc Vương quốc Avanti, phụ thân của Ngài là giáo sĩ trong triều đình nên từ nhỏ Tôn giả đã được ông truyền dạy những kinh điển của Bà la môn giáo.
Tôn giả Đại Ca Chiên Diên sớm bộc lộ tư chất thông minh và tài biện luận. Ngài có một người anh rất thông tuệ và uyên bác, đã bôn ba khắp nơi để tham vấn giáo lý. Khi trở về quê hương ông lập ra nhiều đàn tràng tuyên thuyết những điều mình đã học. Trong khi đó, Tôn giả chỉ ở nhà tự nghiên cứu thêm. Thế nhưng, mỗi khi Ngài có một buổi diễn thuyết thì thu hút rất động các thính chúng từ khắp nơi đổ về. Họ mến mộ Ngài còn hơn cả người anh.

Sau này, Tôn giả Đại Ca Chiên Diên được gửi gắm đến học với bác ruột là Ẩn sĩ A Tư Đà (Asia). Ông là một vị tiên nhân bác học, đã chứng tứ thiền, ngũ thông, được người dân vô cùng trọng nể. Ông cũng chính là người đã xem tướng cho Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) trong buổi lễ đặt tên. Với thiên tư hơn người, Tôn giả nhanh chóng lĩnh hội được những điều Ấn sĩ A Tư Đà truyền đạt và cũng chứng đắc ngang với thầy của mình. Ẩn sĩ A Tư Đà rất kỳ vọng nơi người cháu, ông dặn dò rằng: sẽ có một bậc Thánh giác ngộ siêu phàm ra đời và khuyên cháu mình hãy sớm đi tìm vị ấy để xin tu học.
Thời gian sau, phụ thân của Ngài qua đời. Tôn giả Đại Ca Chiên Diên về triều đình kế nghiệp cha, trở thành giáo sĩ dưới triều vua Candappajjota.

II. TÔN GIẢ ĐẠI CA CHIÊN DIÊN – NHÂN DUYÊN XUẤT GIA

Với tài năng kiệt xuất, Tôn giả Đại Ca Chiên Diên nhanh chóng có được thành công và danh tiếng. Đức vua sắc phong Ngài là “đại thần học sĩ ” của đất nước Avant.

Thế rồi nhân duyên cũng đến. Ngày nọ dân chúng trong kinh thành bỗng nhiên râm ran kể về một Đức Phật giác ngộ siêu phàm đến từ đất nước Thích Ca (Sakya). Những câu chuyện về thần lực và đức hạnh của Người được truyền tụng khắp mọi ngõ ngách, mang lại một bầu không khí mát lành cho xứ Avanti. Vua Candappajjota vốn là người nhân đức, khi biết thông tin vua đã triệu tập quần thần, lệnh cho Ngài Đại Ca Chiên Diên đích thân đến thỉnh Đức Phật về vương quốc để thuyết Pháp.

Nghe lệnh vua ban, bỗng nhớ lại lời căn dặn của Ẩn sĩ A Tư Đà và biết rằng nhân duyên đã đến, Ngài lập tức cùng đoàn gồm 7 người tùy tùng lên đường đến kinh thành Xá Vệ (Savatthi) để gặp vị Thánh mình ngày đêm mong mỏi, lòng ngập tràn hy vọng.

Sau khi vượt một chặng đường dài, cuối cùng đoàn người cũng đến đích. Vừa bước chân vào tinh xã Trúc Lâm (Veluvana), chiêm ngưỡng Đức Phật ngự tòa uy nghi, toàn thân Tôn giả đã lập tức rúng động. Dung nghi của Phật rực rỡ như ánh trăng rằm, vừa cao quý thiêng liêng vừa hiền từ ấm áp. Niềm xúc động bỗng dâng lên xâm chiếm lấy tâm hồn vị giáo sĩ đến từ xứ Avanti. Trái tim Ngài chỉ biết dành trọn lòng thương kính trong hạnh phúc và đôi chân Ngài không còn trụ vững được nữa, Tôn giả quỳ xuống đảnh lễ Đức Phật thật lâu.

Khi bình tâm lại, Tôn giả và đoàn người mới chắp tay bộc bạch về cuộc hành trình của mình và thỉnh cầu Đức Phật đến thăm quê hương yêu dấu. Đức Phật chưa nhận lời ngay, thay vào đó, Người ban một thời Pháp âm với những đạo lý cao thượng khiến cho đoàn người cảm thấy như mình vừa được sinh ra thêm một lần nữa!
Đức Phật giảng về người trí và kẻ ngu, về khổ, về nhân quả luân hồi, về sự vô thường của thân xác, về con đường Bát Chánh Đạo mà ai cũng phải thực hành nếu muốn đạt được hạnh phúc nơi Niết Bàn tuyệt đối an vui… Bài Pháp dài nhưng cả đoàn đều lắng nghe chăm chú. Mỗi lời từ kim khẩu của Đức Phật tựa như đang ban tặng những hạt mưa của trời đất, từng giọt từng giọt cứ tí tách vang vọng trong tâm hồn các vị. Khi Đức Phật vừa dừng lời thì Tôn giả Đại Ca Chiên Diên hoát nhiên bừng ngộ, trở thành một vị Thánh A La Hán, giải thoát hoàn toàn khỏi trầm luân sinh tử. Ngài quỳ xuống dâng lên Đức Bổn Sư lòng tôn kính và biết ơn vô hạn. Đức Phật chỉ mỉm cười:

– Lành thay, hãy đến đây, Tỳ kheo!

Lập tức Tôn giả Đại Ca Chiên Diên thấy mình trong phong thái của một vị Tỳ kheo với đầy đủ ca sa, tóc đã được phủi. Bảy người còn lại cũng quỳ xuống đảnh lễ Phật xin xuất gia.

Vậy là kể từ đó, nhân gian xuất hiện thêm một vị Đại A La Hán với công hạnh tuyệt vời. Mỗi vùng đất mà Ngài bước qua sẽ để lại những dấu ấn kỳ tuyệt, những ai có vinh hạnh được nghe những lời giáo hóa của Ngài sẽ gặt hái được vô lượng công đức và gieo nhân lành giải thoát giác ngộ về sau.

III. TÔN GIẢ ĐẠI CA CHIÊN DIÊN – HÙNG BIỆN ĐỆ NHẤT

1. Khả Năng Hùng Biện

Hùng biện chính là khả năng diễn thuyết đạo lý một cách mạnh mẽ, sâu sắc làm lay động tâm hồn người khác. Trên bước đường hoằng dương chánh Pháp đi khắp mọi chốn nghìn nơi, người đệ tử Phật sẽ phải đương đầu với rất nhiều gian nan, thử thách. Một trong những chướng ngại lớn nhất chính là sự cố chấp của chúng sinh.
Những chúng sinh cang cường nhất sẽ cố thủ trong các bức tường thành vững chắc khóa kín tâm hồn họ. Bức tường ấy được bồi đắp bởi dày đặc những chấp ngã, vô minh, thành kiến, những niềm tin mù quáng, sự kiêu căng tự phụ… Để bảo vệ nó, họ sẽ đưa ra rất nhiều lý lẽ ngụy biện, những lập luận gài bẫy, những thắc mắc vô cùng kỳ lạ khiến ánh sáng chân lý khó có thể tìm được lối vào.

Tôn giả Đại Ca Chiên Diên chính là vị Thánh Tăng tiên phong trong công hạnh hóa giải những vấn đề hóc búa như thế. Đặc biệt Ngài chỉ dùng những ngôn từ hết sức bình dị, những câu nói giản đơn nhưng hàm chứa uy lực lớn lao, phá tan bức tường thành trong tâm hồn của chúng sinh, giúp họ thấy được sự nhiệm màu trong giáo Pháp.

Trong những cuộc đối đáp, lập luận sắc bén và sự khéo léo của ngôn từ sẽ giúp chân lý được sáng tỏ còn chính tấm lòng đại lượng của Tôn giả lại chinh phục tâm hồn của mọi chúng sinh, dù là cang cường nhất. Ngài chỉ bảo không vì danh lợi, không một chút hơn thua, luôn kiên trì, nhẫn nại, đầy lòng từ bi và dũng lực. Câu chuyện dưới đây là một minh chứng.

Trên đường từ Xá Vệ trở về quê hương Avanti, khi đang trên chiếc bè ở giữa sông Hằng, một kẻ chợt đứng dậy rút gươm kề cổ người lái bè và chỉ tay vào Tôn giả:

Vị Sa môn kia, tôi muốn hỏi ông một câu, nếu trả lời được tôi sẽ cho bè cập bến, nếu không thì chiếc bè này sẽ trôi tự do đưa các người ra biển.

Này thí chủ, hãy hỏi đi. – Tôn giả đáp lại. Trên đời này, điều gì là tôn quý nhất?

Này thí chủ, không làm khổ mình, không làm khổ người, đó là điều tôn quý nhất!

Sa môn đáp sai rồi, điều tôn quý nhất chính là Phạm Thiên trên trời cao.

Kẻ kiếm khách cau mày lại khiến gương mặt càng trở nên u tối và cực đoan. Vị Sa môn đã động chạm vào niềm tin hằn sâu trong lòng anh ta. Tôn giả Đại Ca Chiên Diên chỉ mỉm cười đối đáp:

Hiền giả cũng đáp sai rồi. Khi nãy hiền giả hỏi là “trên đời” sao bây giờ lại bảo rằng “trên trời cao”? Phạm Thiên trên cao không người nào nhìn thấy, nhưng hiền giả hãy nhìn xem, nỗi khổ cuộc đời có ai mà chưa trải qua? Đó là khi thân quyến xa lìa, tai họa ập đến, già bệnh chết đang chờ đợi. Từ vua chúa cho đến người nghèo khổ, không ai là không bị đau khổ. Những nỗi khổ tràn ngập khắp cuộc đời, vì vậy người nào thoát được đau thì người đó là tôn quý nhất!

Kẻ kiếm khách lúng túng bởi niềm tin của mình đang bị lung lay mạnh mẽ. Anh ta hỏi lại:

Vậy Sa môn đã thoát khỏi khổ đau chưa?

Này hiền giả, ta sẽ không nói cho người đang cầm gươm làm kinh sợ cả đoàn như thế. Lưỡi gươm trên tay tuy oai hùng nhưng chỉ để che đậy sự yếu đuối bởi bất lực trước những đau khổ đang giấu kín trong lòng mà thôi. Kỳ thực, cuộc đời hiền giả cũng đã quá nhiều đau khổ không nói thành lời rồi.

Nghe lời nói đó, kiếm khách buông gươm quỳ xuống khóc nức nở. Khi đó Tôn giả nhẹ nhàng ban lời dạy: Này thí chủ, hãy dùng lưỡi gươm vô hình của trí tuệ mà đoạn trừ phiền não khổ đau nơi chính mình.
Người kiếm khách cứ ngẩn người lẩm bẩm một mình câu nói ấy, cho đến khi chiếc bè cập bến và Tôn giả đã đi xa khuất.

2. Bậc Thầy Luận Giải Phật Ngôn

Trong suốt cuộc đời giáo hóa, Đức Thế Tôn đã áp dụng nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau. Thường thì Thế Tôn sẽ giảng một cách cụ thể, chi tiết với nhiều ví dụ gần gũi để người đệ tử có thể dễ dàng nắm được và thực hành. Nhưng cũng rất nhiều lần, Thế Tôn lại chỉ đưa ra một bài kệ ngắn gọn hay một câu nói cô đọng nhưng chứa đựng ý nghĩa cao sâu khôn tả. Những lời dạy ấy tuy dùng ít ngôn từ nhưng lại hàm chứa sức tác động mạnh mẽ vào tâm tư người nghe. Bằng việc nói vắn tắt, Thế Tôn cũng khuyến khích các đệ tử phải suy ngẫm nhiều hơn và tham vấn với nhau để tự rút ra được ý nghĩa.

Những lần như thế, các vị Tỳ kheo thường hay thỉnh các bậc Trưởng lão như Ngài Xá Lợi Phất (Sariputta), Ngài Mục Kiền Liên (Maha Moggallana), Ngài A Nan (Ananda)… để giải thích. Tuy nhiên, các vị vẫn mong muốn được nghe Tôn giả Đại Ca Chiên Diên luận giải nhất, bởi vì Ngài thường đi thẳng vào trọng tâm vấn đề, phân tích cặn kẽ từng điểm với ngôn từ giản dị, dễ hiểu. Với kiến văn quảng bác của một đại thần học sĩ, Ngài trình bày đạo lý một cách có hệ thống và những lập luận vô cùng hợp lý. Đối với những vấn đề trừu tượng, tùy vào căn cơ của chúng sinh mà Tôn giả sẽ lấy những ví dụ cụ thể, gần gũi như chính cuộc sống của họ.

Cho dù Tôn giả thường cư ngụ tại quê hương Avanti khá xa so với tỉnh xá của Đức Phật, nhưng mỗi khi Ngài đến thì Tăng chúng đều sắp xếp những buổi đàm đạo riêng để thưa hỏi. Thế Tôn thường tán thán rằng: “ Này chư Tỳ kheo, Đại Ca Chiên Diên có trí tuệ thâm sâu và vĩ đại. Nếu các con có hỏi Như Lai thì Như Lai cũng sẽ giải thích giống như vậy!”

Được Thế Tôn và Tăng chúng khen ngợi bao nhiêu thì Tôn giả lại càng giữ mình khiêm hạ bấy nhiêu. Mỗi khi được mời lên thuyết Pháp, Ngài thường bảo rằng Ngài chỉ đang trình bày những kiến giải và hiểu biết của mình nhưng không bao giờ so sánh được với Đức Thế Tôn. Giống như người muốn đi tìm lõi cây thì hãy tìm nơi thân và rễ chứ đừng tìm ở cành, lá. Rồi sau khi giảng, Tôn giả lại cẩn thận dặn dò các Tỳ kheo hãy đến hỏi lại Thế Tôn để đạo lý được vững chắc.

Trong kho tàng Kinh điển, không khó để có thể tìm một ví dụ mà Tôn giả Đại Ca Chiên Diên đã luận giải xuất sắc những lời dạy vắn tắt của Thế Tôn. Lần giải thích về câu kinh trong bài “Nhất Dạ Hiền Giả” dưới đây là một điển hình.

Thế Tôn dạy:

“Không truy tìm quá khứ
Không vọng ước tương lai.”

Có một vị Tỳ kheo không hiểu nổi, mới đến hỏi Tôn giả. Ngài giải thích rằng:

“Khi một người hồi tưởng lại những hình ảnh trong quá khứ, hình ảnh đó khiến người ấy yêu thích và mong muốn ngắm nhìn. Vì yêu thích và mong muốn nên người ấy vui sướng. Vì vui sướng nên tìm cầu. Đối với những âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm giác, ý nghĩ cũng như vậy, làm cho người đó cứ tìm cầu mãi. Đó gọi là truy tìm quá khứ.

Khi một người nghĩ đến tương lai, hi vọng rằng mắt của mình sẽ được nhìn những hình ảnh mong muốn. Rồi người ấy hướng tâm trí để được thấy những hình ảnh đó. Vì hướng tâm như vậy nên người ấy vui sướng. Vì vui sướng nên người đó ước vọng. Đối với những âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm giác, ý nghĩ cũng vậy, đó gọi là ước vọng tương lai.

Một người không bị trói buộc bởi những sự ưa thích hay mong muốn vào những hình ảnh, âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm giác, ý nghĩ trong quá khứ, tương lai và hiện tại được gọi là người không truy tìm quá khứ, chẳng ước vọng tương lai, chiến thắng trước các pháp đang sanh khởi.”

Một lần khác, Thế Tôn dạy: “Này các Tỳ kheo, cần phải hiểu biết thế nào là “Pháp” và “ phi Pháp”, những nguy hại và lợi ích. Sau khi nắm được rồi thì phải tinh cần thực hành theo chánh Pháp.

Tôn giả đã lý giải cặn kẽ lời dạy của Thế Tôn qua “mười bất thiện nghiệp” và “mười thiện nghiệp”. Đó là: “Sát sinh là phi Pháp, từ bỏ sát sinh là Pháp. Những điều ác do sát sinh mang lại chính là mối nguy hại, những điều thiện do từ bỏ sát sinh chính là lợi ích. Cũng tương tự như vậy là trộm cắp, dâm dục, nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời vô ích, nói lời ác độc, tham lam, sân hận, tà kiến.”

Sau những lần được nghe Tôn giả giải thích như vậy, Tăng chúng đều cảm thấy dễ hiểu và vui mừng đón nhận để thực hành.

IV. KẾT LUẬN VỀ TÔN GIẢ ĐẠI CA CHIÊN DIÊN

Lúc còn tại tiền, Tôn giả Đại Ca Chiên Diên khá kín đáo, những thông tin về cuộc sống của Ngài không lưu lại nhiều trong sử liệu. Thế nhưng, Ngài luôn được Đức Phật ngợi khen, chư Thiên tán thán và được Tăng chúng yêu mến bởi đức hạnh và hình ảnh mẫu mực của một Đại A La Hán. Ngài vẫn thường xuyên khuyên bảo các vị Tỳ kheo về việc tu hành. Hơn thế, Tôn giả còn chính là vị đầu tiên đã đề xuất lên Đức Phật chế một số giới luật để nghiêm trì sự thanh tịnh trong Tăng đoàn.

Trên con đường hoằng dương chánh Pháp, nếu như các vị Tôn giả khác thường thuyết Pháp trước một đại chúng đông đảo thì Tôn giả Đại Ca Chiên Diên lại chọn cho mình cách giáo hóa từng người mà Ngài có duyên gặp được. Bằng cách ấy, Tôn giả đến với từng chúng sinh ở mọi căn cơ khác nhau. Rất nhiều chúng sinh vì vô minh mà chưa bao giờ tìm cầu chân lý, chưa bao giờ dự được một pháp hội để lắng nghe thì Ngài sẽ là người mang lời dạy cao quý của Thế Tôn đến với họ, như người mang kho báu đặt trước cửa nhà họ vậy.

Cũng bằng cách ấy, Tôn giả sẽ thấu hiểu tâm tư, tình cảm của từng người để tiện bề hóa độ. Những bài Pháp thiêng liêng không chỉ trên lý thuyết nữa mà đã sống động trong từng hơi thở của cuộc đời. Nhờ vậy mà rất nhiều đạo lý uyên áo, nhiều vấn đề lớn của nhân sinh như: Tình yêu vị kỷ hay lòng từ bi bao la, tuổi tác và đức hạnh, sự bình đẳng không giai cấp, điều gì là tôn quý nhất, luân hồi tái sinh… đều được lý giải một cách nhẹ nhàng, sáng tỏ. Và bởi sự giản dị, gần gũi của nó qua các câu chuyện mà những đạo lý ấy cứ được lưu truyền mãi trong nhân gian, trở thành nguồn cảm hứng tuyệt vời cho những người Phật tử chúng ta ngày hôm nay.

VII. THƠ TỤNG VỀ TÔN GIẢ ĐẠI CA CHIÊN DIÊN

Chúng con xin đảnh lễ Ngài
Đệ Nhất Hùng Biện muôn đời lưu danh
Hóa độ cứu giúp chúng sanh
Phá tan chấp ngã tường thành vô minh
Suốt đời chẳng ngại hy sinh
Bậc A La Hán quên mình dấn thân
Tìm người hóa độ ân cần
Giúp người tỏ ngộ phát tâm Bồ Đề
Xin Ngài gia hộ chở che
Chúng con bao kiếp lầm mê đắm chìm
Chỉ biết ích kỷ cho mình
Đóng lại cánh cửa tâm linh nhiệm màu
Chúng con biết sẽ về đâu
Giữa dòng tăm tối u sầu khóc than
Rồi Người bước giữa trần gian
Thắp nguồn đạo lý ngập tràn tình thương
Như nghìn ánh sáng soi đường
Đưa người khắp chốn về nương Pháp màu
Từ nghìn xưa đến nghìn sau
Niềm tin kính Phật nguyện cầu khắc ghi
Xin quỳ trước Phật uy nghi
Lòng con thấu hiểu chẳng gì quý hơn
Lời Phật chan chứa tâm hồn
Con đường Bát Chánh lòng luôn hướng về
Dẫu bao gian khó chẳng nề
Giữ tâm thanh tịnh bốn bề bình yên
Vững vàng tinh tấn hành thiền
Cùng nhau về chốn diệu huyền mênh mông…
Nam Mô Đại Ca Chiên Diên Tôn Giả (3 lần)

 


Tổng số đánh giá: 0

Xếp hạng: 5 / 5 sao

Cùng chủ đề